Thứ Bảy, 21 tháng 9, 2013

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH PHƯƠNG PHÁP 
CHĂM SÓC BÀ MẸ KANGAROO CHO GIA ĐÌNH 
BS Lương Kim Chi 
  Phương pháp chăm sóc bà mẹ Kangaroo (PP CSBMK) là một phương pháp chăm sóc trẻ đẻ non, nhẹ cân được áp dụng theo ý tưởng kangaroo chăm sóc con bằng cách đặt con trong túi phía trước ngực mẹ. 
Ngày nay PP CSBMK đã được ứng dụng hầu như trên toàn thế giới và được công nhận là phương pháp mang đầy tính nhân bản, con được nằm trong vòng tay, hơi ấm của mẹ.  
Nội dung chính: 
  1. Tư thế kangaroo: da kề da liên tục 24/24 giờ và càng kéo dài càng tốt.
  2. Dinh dưỡng kangaroo: nuôi con bằng sữa mẹ hoàn hoàn nếu có thể.
  3. Kích thích, massage cho trẻ thường xuyên trong quá trình chăm sóc.
  4. Xuất viện sớm và theo dõi chặt chẽ.
Lợi ích của chăm sóc kangaroo: 
  1. 1.     Đối với trẻ:
  • Trẻ sẽ ngủ yên hơn và ít khóc hơn.
  • Giúp kiểm soát, ổn định được nhiệt độ của trẻ.
  • Giảm cơn ngừng thở, ổn định nhịp tim (do những cử động liên tục và nhịp thở của người mang trẻ).
  • Việc nuôi dưỡng bằng sữa mẹ dễ dàng hơn.
  • Giúp bé dễ tiêu hóa và hấp thu thức ăn tốt hơn.
  • Khớp háng ở tư thế dạng, giúp giảm trật khớp háng.
  • Giúp giảm đau tốt cho trẻ sơ sinh.
  • Giúp trẻ phát triển thể chất tốt hơn.
  • Tăng khả năng nhận thức, giúp trẻ vận động tốt hơn.
  • Giảm tỉ lệ tử vong và bệnh tật.
  • Giảm chi phí và thời gian nằm viện.
  1. 2.     Về phía bà mẹ và gia đình:
  • Thể hiện được mối quan hệ gắn bó thiêng liêng giữa mẹ và con.
  • Giúp mẹ tự tin, giảm lo lắng sợ hãi, giảm trầm cảm.
  • Gia đình đồng cảm, cùng san sẻ trách nhiệm nuôi trẻ.
  • Ngành y tế có trách nhiệm chia sẻ với gia đình những gánh nặng lâu dài.
Cách đặt trẻ vào túi kangaroo 
  Bế trẻ bằng một bàn tay nâng dưới cổ và lưng trẻ, tay kia bế nâng phần mông của trẻ
  • Nâng nhẹ phần dưới cằm để giữ đầu, cổ trẻ không bị gập xuống làm cản trở đường thở của trẻ.
  • Đặt trẻ lên ngực mẹ, nằm sấp giữa hai bầu vú mẹ ở tư thế thẳng đứng với ngực kề ngực, đầu trẻ nằm quay về 1 bên. Đặt 2 tay trẻ ôm phía trên và hai chân rút vào phía bên dưới 2 bầu vú mẹ, giống tư thế con ếch. 
  • Một tay giữ đầu, tay kia đưa hai bàn chân trẻ ra khỏi phần dưới áo kangaroo, rồi kéo phần trên của áo đến ngang tai trẻ.
  • Đổi tay giữ đầu, kéo áo cho hoàn chỉnh. Sau cùng kéo phần dưới áo phủ xuống hai bàn chân trẻ.
  • Trẻ cần đội thêm nón, đi tất và lót tả. Người mẹ cần mặc một cái áo địu bằng vải chun giãn để giữ trẻ luôn ở vị trí kangaroo và tránh di động đầu và cổ bé.
  • Người mẹ có thể đi lại cùng với con trong túi kangaroo và làm một số việc nhẹ nhàng.
  • Người mẹ trở thành một lồng ấp tự nhiên cho con 24/24 giờ.
  
Dinh dưỡng cho trẻ kangaroo 
  • Cho đến thời điểm này thì sữa mẹ vẫn là thức ăn hoàn hảo nhất cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nhất là đối với trẻ sinh nhẹ cân và trẻ có bệnh lý.
  • Đối với trẻ sinh non, khả năng bú, nuốt và thở của trẻ chưa hoàn chỉnh nên trẻ bú không đạt hiệu quả hoàn toàn được. Do đó, sau khi trẻ bú mẹ cần cho ăn thêm bằng ống tiêm nhỏ giọt hoặc bằng muỗng (thìa).
  • Đối với trẻ <32 tuần chưa có khả năng bú, nuốt và thở tốt có thể cho ăn bằng ống thông dạ dày.  
 Cách tính lượng sữa cho trẻ ăn hàng ngày: 
Ngày đầu tiên sau sanh: 70-80 ml cho 1 kilo cân nặng lúc sanh, sau đó tăng 10ml mỗi ngày cho 1 kilo cân nặng nếu trẻ dung nạp sữa tốt, (lưu ý chỉ tăng tối đa đến 200ml, không tăng thêm nữa). 
Thí dụ: trẻ sanh 1.500 gram thì ngày đầu tiên sau sanh ta cho 80 x 1,5kilo = 120ml,  120ml chia cho 12 cữ ăn (tức cho ăn mỗi 2 tiếng một lần) = 10ml cho mỗi cữ. 
Khi trẻ được 8 ngày tuổi sẽ có lượng sữa tăng thêm là 70ml/kilo: (70ml thêm + 80ml ngày đầu = 150ml), lấy 150ml x 1,5kilo = 225ml, 225ml chia cho 12 cữ, mỗi cữ sẽ là 18ml. 
Nếu 1 tiếng rưỡi ăn một lần thì chia cho 16 lần, lượng sữa cho mỗi cữ là: 14ml. 

Lợi ích của nuôi con bằng sữa mẹ  
1. Lợi ích đối với con: 
  • Nhiều chất dinh dưỡng hoàn hảo
  • Các thành phần trong sữa mẹ được hấp thu dễ dàng, sử dụng có hiệu quả cao.
  • Bảo vệ trẻ chống nhiễm khuẩn.
  • Dễ tiêu hóa, ít gây táo bón.
  • Tăng cường sự gắn bó sâu sắc giữa mẹ và con, giúp trẻ phát triển tâm sinh lí tốt.
2. Lợi ích đối với mẹ: 
  • Giúp mẹ chậm có thai.
  • Bảo vệ sức khỏe cho mẹ.
  • Tiết kiệm được tiền mua sữa.
3. Những nguy hiểm của việc nuôi con bằng sữa nhân tạo (sữa bột) 
  • Ngăn cản sự gắn bó mẹ con.
  • Dễ bị tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp.
  • Dễ mắc chứng còi xương. 
  • Suy dinh dưỡng do thiếu vitamin A.
  • Dễ bị dị ứng và không dung nạp sữa.
  • Tăng nguy cơ mắc một số bệnh mãn tính.
  • Tăng cân quá mức.
  • Điểm thử nghiệm chỉ số thông minh thấp.
  • Mẹ có thể sớm có thai trở lại.
  • Mẹ tăng nguy cơ mắc chứng thiếu máu, ung thư vú và buồng trứng.                 
  
Hướng dẫn cho trẻ bú mẹ 
  • Giữ đầu và thân trẻ phải cùng nằm trên một đường thẳng.  
  • Để mặt trẻ quay vào vú mẹ, mũi trẻ đối diện với núm vú. 
  • Ôm con sát người mẹ. 
  • Để đầu vú mẹ chạm vào môi con. Cho trẻ ngửi, liếm sữa mẹ. 
  • Chờ trẻ mở rộng môi, nhanh chóng đưa sát miệng con vào vú mẹ sao cho môi dưới của trẻ ngậm khít dưới núm vú mẹ, cằm trẻ phải chạm vào vú mẹ. 
  
Cách cho ăn bằng bơm tiêm 
  • Tư thế mẹ ngồi, một chân nâng cao hơn chân kia làm điểm tựa.
  • Bế em bé, một tay giữ phần lưng và cổ, tạo tư thế dốc cao 30 độ.
  • Tư thế bé cổ ngửa, đầu và thân nghiêng sang bên.
  • Dùng bơm tiêm 1cc bơm từ từ sữa vào một bên má trẻ để trẻ nuốt dần
  
Hướng dẫn cho ăn qua ống thông dạ dày 
1. Chuẩn bị dụng cụ: 
  • Ông thông dạ dày số 8F
  • Hai ống tiêm 5ml và 20ml
2.  Đặt ống thông dạ dày: 
  • Đo chiều dài ống thông cần đặt sao cho chiều dài của ống thông bằng với khoảng cách từ sống mũi đến vành tai và từ vành tai đến điểm giữa mũi xương ức và rốn. Làm dấu điểm đo trên ống thông.
  • Nên đặt ống thông qua đường miệng để mũi được thông thoáng.
  • Nhẹ nhàng đưa ống thông qua miệng  bằng với khoảng cách đã được đo sẵn.
  • Kiểm tra vị trí của ống thông bằng cách rút khí và dịch trong dạ dày dễ dàng, và ngừng rút khi thấy cứng tay để tránh hút vào thành dạ dày gây tổn thương.
  • Nên nhớ lúc nào trong dạ dày cũng có khí và dịch, ít nhiều tùy theo sự tiêu hóa của trẻ. Nếu rút không thấy khí và dịch có thể do đầu ống thông đã sai vị trí.
  • Sau khi kiểm tra xong dùng băng keo cố định ống thống ở môi trên hoặc một bên má.
  • Chú ý khi đặt ống thông dạ dày phải mở nắp ống thông và khi tháo ống thông phải đậy nắp lại để tránh sữa trào vào đường thở của bé.
3. Cho ăn qua ống thông:  
Chú ý trước khi cho bé ăn nên kiểm tra lượng sữa tồn dư trong dạ dày của bé bằng cách rút dịch như hướng dẫn trên, thường sữa dư chỉ khoảng 1-3ml tùy cân nặng của trẻ. Nên tính trừ bớt lượng sữa dư khi cho ăn. Thí dụ: mỗi cữ ăn trẻ ăn 10ml, sữa dư rút được 3ml thi chỉ cho thêm 7ml nữa là đủ.  
  • Nên đặt bé vào tư thế kangaroo trước khi cho ăn.
  • Dùng ống tiêm 20ml  gắn vào đầu ống thông
  • Đổ lượng sữa đã được tính theo nhu cầu của trẻ vào ống tiêm.
  • Nâng ống tiêm đến mức sữa có thể chảy chậm trong vòng 10-15 phút.
  • Khi sữa chảy hết, tháo ống tiêm ra và đậy nắp ống thông lại.
4. Thời gian lưu ống thông 
Tùy theo chất liệu ống thông dạ dày, có thể lưu ống thông trong 24 giờ (nếu ống thông làm bằng polyvinyl chloride) hoặc đến 72 giờ (nếu ống thông bằng polyurethane)  
Cách vắt sữa bằng tay 
1. Chuẩn bị dụng cụ vắt sữa: 
  • Chọn một chiếc cốc, ly, lọ hoặc bình có miệng rộng bằng plastic, tránh dùng dụng cụ bằng thủy tinh sẽ làm giảm lượng kháng thể do các kháng thể bám dính vào thành dụng cụ bằng thủy tinh
  • Rửa dụng cụ bằng xà phòng và nước.
  • Rót nước đang sôi vào ly, cốc và để trong vài phút
  • Khi đã sẵn sàng để vắt sữa thì đổ nước ở cốc đi.
2. Kỹ thuật vắt sữa: 
  • Rửa tay thật kỹ.
  • Ngồi hoặc đứng một cách thoải mái và giữ bình đựng ở gần vú.
  • Đặt ngón tay cái của bà mẹ lên phía trên núm vú và quầng vú, ngón trỏ ở phía dưới núm vú và quầng vú, đối diện với ngón tay cái. Các ngón tay còn lại nâng phía dưới vú.
  • Ấn  ngón cái và ngón trỏ một cách nhẹ nhàng về phía trong thành ngực. Không nên ấn quá mạnh vì sẽ làm tắc ống dẫn sữa.
  • Bóp vào rồi thả ra một cách nhịp nhàng cho đến khi sữa chảy thành dòng.
  • Xoay ngón tay theo nhiều phía của quầng vú để đảm bảo vắt hết sữa ở tất cả các phần vú.
   
Các vấn đề cần theo dõi 
1. Theo dõi nhiệt độ
Đo bằng nhiệt kế trong 3 ngày đầu, mỗi 6-8 giờ hoặc khi nhiệt độ phòng thay đổi. Sau đó đo khi nghi ngờ nhiệt độ bé thay đổi. Bình thường nhiệt độ cơ thể có thể dao động từ 36 đến 37 độ C. 
Cách đo nhiệt độ phổ biến tại nhà là đo nhiệt độ ở nách trẻ 
  • Bà mẹ chú ý rửa tay trước khi đo nhiệt độ cho bé.
  • Kiểm tra nhiệt độ trước khi đo: cầm chặt nhiệt kế vẫy mạnh đến khi thấy vạch thủy ngân chảy xuống dưới mức 35 độ C. 
  • Đặt nhiệt kế sâu vào nách trẻ, giữ tay trẻ sát vào thân liên tục trong ít nhất 3 phút. Chú ý, đầu nhiệt kế phải tiếp xúc với da, không tiếp xúc với áo.
  • Chờ cho đến khi có thể đọc được số. Đối với nhiệt kế thủy ngân thường có kết quả sau ít nhất 3 phút. Đối với nhiệt kế điện tử, sau khi đo xong, nhiệt kế có tiếng peep báo hiệu là có thể đọc được kết quả.
  
Đọc và xử trí kết quả:   
Dưới 36 độ C 
  • Nên ấp bé trong tư thế kangaroo liên tục.
  • Nếu cần, nên đắp chăn thêm cho bé.
  • Sau 20 phút nên đo lại nhiệt độ, nếu trẻ còn hạ thân nhiệt thì phải tư vấn nhân viên y tế.
Trên 37 độ C 
  • Nên tạo nhiệt độ phòng mát mẻ (bật quạt, mở cửa sổ, cửa lớn, có thể dùng máy lạnh nếu có).
  • Tránh đắp thêm chăn cho bé.
  • Nếu đã làm như trên mà nhiệt độ vẫn chưa giảm đến mức mong muốn thì vẫn ấp bé ở tư thế kangaroo, nhưng để bé ra ngoài áo của người ấp nhằm giảm tiếp xúc da kề da.
Trên 38 độ C: Nên báo nhân viên y tế nếu bé còn trong viện, nếu bé ở nhà nên đưa bé đến khám tại cơ sở y tế gần nhất. 
2.  Theo dõi nhịp thở, cơn ngừng thở 
Bình thường trẻ sơ sinh ở trạng thái yên tĩnh thở 30-60 lần/phút, cơn ngừng thở >15 giây là bất thường.  
3. Theo dõi màu sắc da: hồng, vàng hay tím tái 
+ tím nhẹ: bé có biểu hiện thay đổi màu da quanh hốc mắt hoặc quanh môi: kiểm tra lại tư thế của bé có bị gập cổ, gập bụng không, đầu bé có được nâng cao chưa, có nghẹt đàm hay sữa trong miệng không, nếu có phải lấy sạch phần dịch trong miệng cho bé, xem bụng bé có căng trướng không? 
+ tím nặng:  thay đổi màu da cả mặt và chân tay: xử trí như tình huống trẻ sặc sữa ( xem phần cấp cứu sặc sữa) 
4.  Theo dõi phân: có màu hay có mùi gì khác thường không, số lần? Bình thường bé đi tiêu 1-2 lần, đôi khi bé có thể đi 5-7 lần trong ngày. Tính chất phân: vàng sệt, lẫn nước, đôi khi có mùi hơi chua khi trẻ bú mẹ. Số lượng phân hàng ngày nhiều hay ít, nếu số lần và số lượng phân giảm so với những ngày trước phải massage bụng cho bé trước mỗi cữ bú để tránh tình trạng tắc phân trong ruột rất nguy hiểm.    
5. Theo dõi nước tiểu : nước tiểu thường trong hay vàng nhạt, bé tiểu 8-10 lần trong ngày. 
6. Theo dõi cân nặng hằng ngày ghi vào bảng theo dõi cân nặng để nhận biết trẻ tăng hay giảm cân.   
7. Theo dõi chiều dài, vòng đầu mỗi tuần. Chiều dài: tăng 0,7cm/tuần, vòng đầu tăng 0,5cm/tuần 
  
 Cách cho bé uống thuốc 
1. Thuốc giọt: Nên pha loãng 1 giọt thuốc với 2-3 giọt nước: 
  • Bé  ống thông dạ dày thì dùng ống tiêm bơm qua thông dạ dày.
  • Bé không có ống thông dạ dày thì bơm nhỏ giọt vào miệng như bơm sữa.  
  • Ngày đầu khi bé chưa quen uống thuốc chúng ta nên cho trẻ uống 1 giọt và sau đó tăng mỗi ngày 1 giọt đến bằng liều đã ghi trong toa (thí dụ : toa thuốc ghi ngày uống 1 lần, lần 5 giọt thì ta cho uống ngày đầu 1 giọt, ngày thứ hai 2 giọt, ngày tiếp 3 giọt, tăng đến 5 giọt là dừng)
Nên uống thuốc đúng giờ. 
2. Thuốc viên nén: thí dụ như calcium D (màu xanh) nên bẻ 1 phần tư viên thuốc cho vào nước ngâm (nhớ khôngnghiền nát thuốc) đến khi thuốc tan hết thì cho bé uống, có thể cho thêm ít đường. Cũng bơm thuốc và ống thông hoặc vào miệng giống thuốc giọt.  
3. Thuốc dầu cá như vitamin AD, E: 
Dùng kim tiêm đâm một lỗ nhỏ trên đầu viên thuốc rồi bóp 1 giọt nhỏ vào miệng trẻ kể cả trẻ có ống thông dạ dày và giữ viên thuốc đã dùng rồi cho bé uống tiếp 2 ngày nữa hoặc mẹ uống cũng được. 
Lưu ý:  khi bé đang có ống thông dạ dày thì không được bơm sữa hoặc thuốc vào miệng bé, chỉ trừ viên dầu cá vì lượng thuốc quá ít không thể bơm qua ống thông được. 
  
Cấp cứu sặc sữa 

Động tác vỗ lưng xử trí sặc sữa
  Luôn giữ bé ở tư thế đầu cao để tránh sặc sữa. 
Nếu bé có ọc sữa lên miệng mũi thì nhanh chóng dùng khăn lau sạch phần sữa đã ọc ra. Có 2 tình huống xảy ra sau đó: 
  • Lau sạch sữa, nếu bé vẫn hồng hào thì vẫn giữ bé ở tư thế nâng đầu và vuốt ngực để bé thở đều lại. Đợi đến khi bé hết mệt và thở đều đặn mới cho ăn tiếp.
  • Lau sạch sữa, nếu bé tái hoặc tím thì phải dùng phương pháp cấp cứu sặc sữa ngay: “Vỗ lưng – ấn ngực” như sau:
    • Đặt bé nằm sấp trên tay và đùi
    • Đầu ở vị trí thấp
    • Vỗ lưng: Dựng bàn tay phải, vỗ 5 cái ở khoảng giữa 2 xương bả vai.
    • Ấn ngực:Lật bé nằm ngửa bằng cách đỡ đầu trẻ và kẹp giữa 2 đầu gối, đầu thấp hơn thân. Dùng 2 ngón tay bàn tay phải ấn mạnh vùng dưới xương ức 5 lần. Quan sát vùng họng và mũi bé, nếu có sữa, thì hút sạch.
  

Động tác ấn ngực bằng hai ngón tay

Đánh giá sau mỗi lần ấn lưng, vỗ ngực: 
  • Hồng, khóc tốt: không cần làm tiếp.
  • Nếu còn khó thở: tiếp tục thực hiện đến 8 lần.
  • Lau sạch phần sữa trong miệng bé và hà hơi thổi ngạt khi bé bị ngưng thở kéo dài.
  • Nếu bé nằm trong viện thì một người cấp cứu và người kia nhanh chóng báo bác sĩ hoặc điều dưỡng.
  • Nếu bé đang ở nhà thì vừa cấp cứu và gọi xe đưa bé đến cơ sở y tế gần nhất. 
  
Hướng dẫn massage cho trẻ non tháng  
1. Lợi ích của massage: 
  • Cải thiện tuần hoàn và hô hấp
  • Kích thích tiêu hóa và bài tiết
  • Giúp tăng cân
  • Tăng sự hoạt bát, tăng khả năng vận động
  • Có giấc ngủ dễ dàng
  • Giảm đau
  • Giảm táo bón
  • Tăng cường khả năng miễn dịch ở trẻ
  • Giúp trẻ hạnh phúc hơn
  • Duy trì sự gắn kết giữa cha mẹ và con cái
2. Một số lưu ý khi massage: 
  • Luôn nhìn vào mắt trẻ. Khi mới bắt đầu, massage từ từ, nhẹ nhàng sau đó mạnh dần và kéo dài hơn.
  • Theo dõi biểu hiện của trẻ, xem động tác nào trẻ thích và động tác nào trẻ không thích, nếu trẻ khóc ít cố gắng làm trẻ nín khóc trước khi massage; nếu trẻ khóc lớn hơn, khóc nhiều thì không massage cho trẻ nữa.
  • Nên dùng baby oil, dầu dừa, dầu ô liu, dầu hướng dương… để làm giảm sự ma sát lên làn da mỏng manh và mềm mại của trẻ, làm cho trẻ cảm thấy dễ chịu hơn và  giúp cho việc massage được thuận lợi và hiệu quả hơn.
  • Thời điểm tốt nhất để massage là lúc:
      + Trẻ sẳn sàng tiếp nhận, tỉnh táo, không đói bụng và không cáo kỉnh, 
      + Người làm massage phải thật sự thư  giãn và thoải mái. 
3. Một số điều không nên làm khi massage: 
  • Massage bụng khi cuống rốn chưa rụng
  • Massage trong vòng 1 tiếng sau ăn
  • Đánh thức trẻ để massage khi trẻ đang ngủ
  • Massage khi trẻ không khỏe hoặc bị bệnh,
  • Massage khi trẻ không muốn,      
  • Bắt trẻ phải ở trong một tư thế khi massage
4. Các động tác massage: 
4.1 Bắt đầu với trẻ trong tư thế nằm sấp 
  • Đầu: Dùng lòng bàn tay vuốt từ trán xuống cổ về phía sau gáy rồi ngược lên trán. Lặp lại động tác 6 lần trong khoảng thời gian 1 phút (10 giây cho một lần vuốt).
  • Vai: Dùng đồng thời cả hai tay( 2-3 ngón tay chập lại) chéo các ngón tay ở cổ và đi xuống hai vai dọc xuống khuỷu tay. Lặp lại động tác 6 lần thời gian như trên.
  • Lưng: Dùng mặt lòng của các ngón tay ở cả 2 tay vuốt cùng lúc hai bên cột sống từ cổ xuống thắt lưng và quay ngược về phía cổ. Lặp lại động tác 6 lần.
  • Chân: Dùng các ngón tay của một bàn tay, vuốt mặt sau chân từ mông xuống cổ chân và ngược lại. Lặp lại 6 lần.
  • Tay: Dùng các ngón tay của cả hai tay vuốt từ giữa hai bả vai xuống cổ tay và ngược lại. Lặp lại 6 lần .
4.2 Đặt bé nằm ngửa lại: làm động tác thư giãn chân tay 
  • Tay: Giữ cổ tay trẻ trong  những ngón tay,  nhẹ nhàng  mở ra rồi uồn từ khuỷu tay gập lại sao cho bàn tay vừa chạm cổ và ngược lại. Lặp lại 6 lần.
  • Chân:
    • Nắm chân phải trẻ trên mắt cá nhẹ nhàng duỗi ra rồi co lại ở gối về phía bụng. Lặp lại 6 lần.
    • Nắm cả hai chân trẻ ở  trên mắt cá nhẹ nhàng duỗi ra, sau đó gập lại. Lặp lại 6 lần.
  
Hướng dẫn vệ sinh cho bé non tháng 
Đối với trẻ sinh non khi còn ở tư thế kangaroo tức chưa đủ chín tháng mười ngày thì không nên tắm cho trẻ, chỉ nên lau ướt nhằm mục đích bảo vệ da, chống nhiễm khuẩn cho trẻ. 
Chuẩn bị: 
  • Nhiệt độ phòng: 28-30 độ, tắt quạt, đóng cửa tránh gió lùa, trẻ được đặt trên bàn đảm bảo độ ấm
  • Bà mẹ hoặc người chăm sóc rửa tay sạch bằng xà phòng
  • Dụng cụ:
    • Thau (chậu) nước sạch ấm khoảng 36-37 độ C
    • Khăn mặt mềm 3 cái, khăn lông sạch, nón, áo, tã,
    • Gạc, gòn, que gòn, cồn 70 độ, nước muối sinh lý 0,9%, thuốc rơ miệng
Các bước tiến hành 
Người tắm nói chuyện biểu lộ tình cảm với trẻ 
1.  Lau phần đầu: Nhúng 1 khăn vào nước và lau đầu cho trẻ, dùng khăn khô sạch lau khô tóc trẻ. 
2.  Lau phần mặt:  
  • Mắt: Làm sạch mắt bằng nước muối sinh lý, dùng 2 miếng bông gòn lau từ khóe mắt ra ngoài đuôi mắt.
  • Dùng một khăn mềm lau mặt bé
  • Mũi và tai: không được ngoáy vào lỗ mũi, vệ sinh tai lau vành tai ngoài, không ngoáy vào ống tai.
3.  Lau phần thân: Dùng 1 khăn mềm khác lau bé theo thứ tự: chú ý các nếp gấp và các hốc tự nhiên 
  • Lau cổ, nách, cánh tay, ngực, bụng
  • Lau lưng mông, chân
Chú ý lau khô vùng da đã lau ướt trước khi lau sang vùng khác 
4.  Vệ sinh bộ phận sinh dục 
Lau theo một chiều từ bộ phận sinh dục ra phía sau vùng hậu môn của trẻ. Có thể dùng nước rửa nếu thấy bẩn. 
5. Cho trẻ sang khăn sạch, mặc áo, tã, giữ ấm cho trẻ. 
5. Một số chú ý đặc biệt 
  • Chú ý không nên nhúng các khăn đã dùng rồi vào thau nước đang sạch do vậy nên chuẩn bị đủ các khăn mềm lau các phần cơ thể bé
  • Nếu miệng bé không sạch, dùng tăm bông thấm  thuốc rơ miệng và rơ sạch từng phần trong miệng trẻ và lấy sạch phần nhớt dơ trong miệng trẻ.
  • Vệ sinh rốn:
    • Không cho nước bẩn dây vào rốn khi rốn chưa rụng hay rụng rồi nhưng chưa liền sẹo.
    • Nếu rốn dính nước tắm thì dùng gạc lau khô, có thể  dùng que gòn thấm cồn 70 độ lau quanh rốn trẻ, lau từ quanh chân rốn đi lên (nếu bé chưa rụng rốn).
Sau khi vệ sinh bé, ấp trẻ vào tư thế kangaroo và theo dõi màu sắc da (hồng hay tím), nhiệt độ, hô hấp trẻ xem trẻ có thở đều không. 
  
Khi nào thì bé Kangaroo có thể xuất viện 
  • Bé hết các bệnh lý cấp tính
  • Nhiệt độ em bé ổn định
  • Tăng cân liên tục trong 3 ngày
  • Bà mẹ tự tin có thể về nhà chăm sóc con mình.
  • Bà mẹ phải thành thạo trong việc nuôi con bằng sữa mẹ
  
Những vấn đề chăm sóc và theo dõi bé Kangaroo tại nhà  
  • Em bé phải được giữ ở tư thế Kangaroo khi ở nhà cũng như khi di chuyển từ nhà đến bệnh viện và ngược lại từ bệnh viện về nhà cho đến khi bé được ít nhất 40 tuần tuổi thai (tức khi bé được 9 tháng 10 ngày)
  • Tiếp tục chăm sóc theo phương pháp Kangaroo như đã được hướng dẫn trong bệnh viện. 
  • Không cho bé nằm than với mẹ. Phòng phải thoáng mát, tránh gió lùa
  • Hàng ngày hai mẹ con nên ra ngoài tắm nắng buổi sáng trước 8 giờ
  • Nên liên lạc qua điện thoại với nhân viên trong chương trình Kangaroo trong tình huống cần xử trí cấp cứu.
  
Bé được tái khám như thế nào 
  • Lưu ý gia đình phải đưa bé đến khám đúng hẹn để bé được theo dõi về sự phát triển chiều dài, cân nặng, phát triển về thần kinh, về tâm thần vận động. Các bất thường sẽ được phát hiện sớm nhằm can thiệp kịp thời 
  • Các bé còn được bổ sung vitamin và khoáng chất cần thiết tại các thời điểm thích hợp ví dụ như các bé dưới 40 tuần sẽ được tiêm vitamin K1 mỗi tuần cho đến khi bé được 40 tuần (tức 9 tháng 10 ngày)..
  • Khi bé chưa đủ 40 tuần, khi ra viện cũng như khi trở lại tái khám người mẹ hoặc thân nhân cần phải đeo mang bé trong tư thế kangaroo để tránh tình trạng bé bi lạnh, bị trào ngược sữa và bị ngưng thở tím tái lúc đi đường. 
Lịch tái khám các bé như sau 
  • Các bé dưới 40 tuần tuổi được tái khám mỗi tuần một lần
  • Các bé trên 40 tuần được tái khám mỗi 2 tuần hoặc 1 tháng đến khi được 12 tháng
  • Các bé trên 12 tháng tuổi được tái khám mỗi 2-3 thaùng tùy tình trạng của mỗi bé. Sau đó bé được khám lúc 3 tuổi, 5 tuổi.

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013


NỘI SOI PHẾ QUẢN VỚI ỐNG SOI MỀM


ĐẠI CƯƠNG:
Nội soi phế quản (NSPQ) là đưa một dụng cụ có thể quan sát được vào trong lòng phế quản, nhằm mục đích chẩn đoán và điều trị những tổn thương trong lòng khí - phế quản. Đồng thời có thể chọc xuyên qua thành phế quản để sinh thiết và thăm dò các tổn thương ngoài phế quản.
1. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA NỘI SOI PHẾ QUẢN
1.1. Lịch sử phát triển của NSPQ trên thế giới
Theo y văn thế giới, NSPQ đã có cách nay trên 2000 năm, từ thời Hippocrate. Ông đã nghĩ ra cách đặt nội khí quản để điều trị bệnh nhân bị ngạt thở. Tuy nhiên NSPQ đã không được phát triển cho tới thế kỷ 19.
Năm 1846, Horace Green lần đầu tiên tiến hành đặt ống nội khí quản và phế quản. Nhưng khi ông trình bày tại Hiệp hội Nội - Ngoại khoa Mỹ ở New York thì bị bác bỏ hoàn toàn vì cho rằng điều đó không thể thực hiện được và không đảm bảo an toàn cho bệnh nhân.
Năm 1895, Kirstein đã khảo sát trực tiếp bên trong thanh quản bằng ống soi O'Dwyer có thêm bóng đèn điện tử lăng kính của Casper qua việc đè lưỡi và nắp thanh môn. Ông là người đã phát minh ra ống soi thanh quản đầu tiên.
Năm 1897, Gustav Killian đã dùng ống soi thanh quản Kirstein để soi phế quản cho một nam nông dân 63 tuổi và phát hiện một mảnh xương nằm ở phế quản gốc phải. Ông đã dùng ống soi thực quản Mikulicz - Rosenheim để lấy dị vật ra sau khi đã gây tê bằng Cocaine. Cuối năm 1898, ông đã báo cáo ba trường hợp gắp thành công dị vật ở cây khí - phế quản. Từ các sự kiện trên đã mở ra một kỷ nguyên về khảo sát cây khí - phế quản bằng nội soi và ông là người thầy thuốc được xem như là cha đẻ của kỹ thuật NSPQ.
Năm 1904, Chevalier Jackson chế tạo ống soi phế quản cứng có bộ phận chiếu sáng ở đầu ống soi.
Năm 1954, Hopkine và Hirschowitz đã phát minh ra sự dẫn truyền hình ảnh qua bó sợi thủy tinh quang học được bao bọc đặc biệt thành một ống mềm dễ dàng uốn cong và đặt tên là "Fiberscope".
Năm 1957, Avery Jones và Hirschowitz đã chế tạo ống soi mềm đầu tiên đơn giản để soi dạ dày. Sau đó ống soi mềm nhanh chóng phát triển ở Mỹ và đặc biệt là Nhật Bản.
Năm 1962, Shigeto Ikeda cùng với Shohei Horie và Kenichi Takino đã chế tạo thấu kính soi phế quản quang học giúp cho soi phế quản có nhiều thuận lợi hơn: độ chiếu sáng tốt hơn, thị trường quan sát rộng hơn và giảm được đường kính của ống soi nên có thể quan sát tới tận các phế quản phân thùy của thùy giữa và thùy dưới.
Năm 1966, Shigeto Ikeda chế tạo ống soi phế quản mềm và ông là người đầu tiên thực hiện NSPQ với ống soi mềm bằng sợi quang học để chẩn đoán bệnh lý phế quản. Sau đó, ông đã giới thiệu phương pháp NSPQ ống mềm tại Hội nghị Bệnh lồng ngực tại Copenhagen. Từ đó, NSPQ ống mềm được ứng dụng rộng rãi và phổ biến trên toàn thế giới, nó dần dần được sử dụng để thay thế cho ống soi cứng.
Năm 1971, Shigeto Ikeda và Ryosuke Ono sử dụng camera để ghi lại hình ảnh màu khi soi phế quản.
Năm 1984, Shigeto Ikeda và Ryosuke Ono đã sử dụng camera kỹ thuật số ghi lại hình ảnh NSPQ, giúp cho thầy thuốc quan sát kỹ hơn các biến đổi của niêm mạc phế quản.
Đến nay đã có nhiều ứng dụng trong NSPQ ống mềm với ống soi ngày càng nhỏ hơn, các bộ nguồn sáng tốt hơn, kỹ thuật NSPQ ống mềm qua truyền hình, cùng với sự cải tiến và sáng chế nhiều dụng cụ để thực hiện các kỹ thuật lấy bệnh phẩm (như rửa phế quản phế nang, chải phế quản, sinh thiết phế quản, sinh thiết phổi xuyên phế quản, chọc hút bằng kim xuyên phế quản) và trị liệu qua nội soi đã giúp ích rất nhiều cho chẩn đoán và điều trị trong chuyên khoa phổi.
1.2. Tình hình ứng dụng nội soi phế quản tại Việt Nam
Năm 1954, NSPQ ống cứng được thực hiện bởi Trần Hữu Tước, sau đó là Võ Tấn để gắp dị vật trong chuyên khoa Tai Mũi Họng. Từ đó, NSPQ ống cứng được thực hiện để chẩn đoán các bệnh lý hô hấp và gắp dị vật trong khí phế quản.
Năm 1974, Lê Quốc Hanh thực hiện NSPQ ống mềm đầu tiên tại bệnh viện Hồng Bàng (nay là bệnh viện Phạm Ngọc Thạch). Năm 1976, Đặng Hiếu Trưng thực hiện tại khoa Tai Mũi Họng Quân Y Viện 108. Nhưng sau vài năm, ống soi mềm bị hư hỏng nên không tiếp tục sử dụng và chủ yếu là sử dụng ống soi cứng để chẩn đoán những bệnh lý hô hấp.
Kể từ năm 1990, NSPQ ống mềm mới phát triển trở lại tại các bệnh viện có chuyên khoa phổi và đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến NSPQ ống mềm được thực hiện, với những kỹ thuật được ứng dụng cho thấy NSPQ ống mềm là một kỹ thuật chính yếu, có nhiều đặc tính ưu việt, hiệu quả, an toàn và không thể thiếu để chẩn đoán điều trị các bệnh lý phế quản phổi.
2. GIẢI PHẪU HỌC TRONG NỘI SOI PHẾ QUẢN
2.1. Đại thể
2.1.1. Khí quản
Khí quản có cấu trúc hình ống, chạy từ trên xuống dưới hơi lệch sang bên phải và phía dưới hơi chếch ra phía sau, được cấu tạo từ 16 đến 20 vòng sụn hình chữ C. Khí quản của người trưởng thành bình thường dài khoảng 11 - 13 cm, có đường kính 1,6 - 1,8 cm.
2.1.2. Cựa khí quản
Cựa khí quản (carina) là nơi phân chia của cây phế quản thành hai phế quản gốc bên phải và bên trái, gốc này tạo nên một gờ sắc nhọn, có nhiều ứng dụng cho việc chẩn đoán hình ảnh của kỹ thuật NSPQ.
2.1.3. Phế quản gốc
Xuất phát từ cựa khí quản đến phần đầu lỗ phế quản thùy trên, đường kính trung bình khoảng 1 - 1,6 cm, được cấu tạo bởi những vòng sụn không liên tục. Phế quản gốc phải thường ngắn và dốc hơn phế quản gốc trái, tạo một góc khoảng 30o với khí quản, dài khoảng 2 cm ở nam và ở nữ là 1,8 cm. Phế quản gốc trái tạo một góc 40o, dài khoảng 4 cm ở nam, 3,6 cm ở nữ.
Hình: Sơ đồ cây phế quản
2.1.4. Phế quản trung gian
Phế quản trung gian chỉ có ở bên phải, là đoạn nối từ lỗ phế quản thùy trên đến lỗ phế quản thùy giữa, dài khoảng 1,5 cm, có cấu trúc cũng tương tự như phế quản gốc nhưng đường kính nhỏ hơn phế quản gốc.
2.1.5. Phế quản thùy trên phải
Phế quản thùy trên phải thường xuất phát từ thành bên ngoài và cách cựa khí quản khoảng 1,8 - 2 cm, dài khoảng 1 cm và đường kính 6 - 8 mm. Phế quản thùy trên bên phải chia làm 3 nhánh phế quản phân thùy:
-         Phế quản phân thùy đỉnh hướng lên trên và chia làm hai nhánh đỉnh trước và đỉnh sau.
-         Phế quản phân thùy sau đi ra sau và hơi ra ngoài, chia hai nhánh: sau ngoài và sau trên.
-         Phế quản phân thùy trước ra trước và hướng xuống dưới, chia làm hai nhánh ngoài và nhánh trước.
2.1.6. Phế quản thùy giữa
Phế quản thùy giữa chỉ có bên phải, hướng đi chếch ra trước, xuống dưới và ra ngoài, tương đối dài và hẹp, đường kính 3 - 4 mm. Sau khi xuất phát khoảng 1,5 cm, phế quản thùy giữa chia làm hai nhánh: phế quản phân thùy sau ngoài chia hai nhánh, phế quản phân thùy trước trong chia hai nhánh.
2.1.7. Phế quản thùy dưới phải: chia làm 5 nhánh
-         Phân thùy đỉnh ở vị trí 6 giờ, đối diện phế quản thùy giữa, đi ra sau và chia làm ba nhánh trên, nhánh sau và nhánh ngoài.
-         Phân thùy đáy trong (phân thùy cạnh tim) nằm cạnh tim ở vị trí 3 giờ, hướng xuống dưới và vào trong, dài khoảng 1,5 cm thì chia hai nhánh trước và nhánh sau.
-         Phân thùy đáy trước ở vị trí 12 giờ, hướng xuống và ra ngoài khoảng 1cm thì chia hai nhánh ngoài và nhánh trong.
-         Phân thùy đáy ngoài nằm giữa đáy trước và đáy sau, chia hai nhánh ngoài và trong.
-         Phân thùy đáy sau ở vị trí 6 giờ, hướng xuống tận góc sườn hoành sau và chia hai nhánh ngoài và nhánh trong.
2.1.8. Phế quản thùy trên trái
Xuất phát từ phế quản gốc trái cách cựa khí quản 4 cm, có đường kính khoảng 7 mm, chia làm 2 nhánh lớn :
-         Nhánh phế quản trên hướng lên trên và chia làm hai nhánh phân thùy đỉnh - sau, phân thùy trước đi ra trước ra ngoài rồi chia hai nhánh ngoài và trước.
-         Nhánh phế quản dưới là phế quản phân thùy lưỡi, đi chếch xuống dưới và ra trước, dài khoảng 1 cm và chia làm hai nhánh phế quản phân thùy lưỡi trên và lưỡi dưới.
2.1.9. Phế quản thùy dưới trái
Phế quản thùy dưới trái chia làm năm nhánh
-         Phân thùy đỉnh vị trí khoảng 6 giờ, đường kính hơi to hơn phế quản phân thùy đỉnh ở bên phải.
-         Phân thùy đáy trong và đáy trước không tách rời nhau như bên phải mà hợp thành một thân chung đáy trong và đáy trước, dài khoảng 8mm xuất phát của những phân thùy này cũng gần giống như bên phải.
-         Phân thùy đáy ngoài, đáy sau và các nhánh phân chia của chúng có hình thái giống bên phải.
Các phế quản phân thùy cũng có cấu trúc sụn, tương đối chắc, nhưng cấu trúc của các phế quản thế hệ kế tiếp ngày càng mỏng dần, ít sụn hơn, nên yếu dần đi, dễ xẹp lại khi hút và dễ rách khi có một lực tác động mạnh như các động tác sinh thiết bằng kềm.
2.2. Vi thể
2.2.1. Khí quản: Có ba lớp
-         Lớp niêm mạc bao phủ lòng khí quản gồm những tế bào trụ với nhung mao trên bề mặt, xen kẽ là những tế bào tuyến.
-         Lớp dưới niêm mạc gồm mô liên kết, mạch máu, cơ trơn và sụn khí quản.
-         Lớp ngoài cùng là tổ chức liên kết.
2.2.2. Phế quản
Phế quản có cấu trúc tương tự, có nhiều tế bào tuyến và nhiều cơ trơn hơn, nhưng phế quản càng nhỏ càng ít mô sụn, thành mỏng hơn và dễ bị co thắt gây hẹp lòng phế quản do không có lớp sụn. 

3. SINH LÝ HÔ HẤP
3.1. Phản xạ đóng nắp thanh môn
Là một phản xạ tự nhiên có lợi để che chở chống lại dị vật rơi vào đường hô hấp dưới, nắp thanh quản đóng lại khi nuốt hay khi dị vật bị hít vào. Nhưng nếu một kích thích vật lý mạnh vào vùng thanh môn có thể gây nên một phản ứng co thắt thanh quản, đôi khi kéo dài gây ngạt thở. Đây là phản xạ mà người bác sĩ nội soi phải hết sức lưu ý vì rất nhiều tai biến, kể cả những tai biến chết người do phản xạ co thắt thanh quản gây ra.
3.2. Phản xạ ho
Là động tác thở ra mạnh mẽ giúp bảo vệ phổi chống lại sự xâm nhập và thúc đẩy dị vật, đàm
nhớt, vi khuẩn, … ra khỏi đường hô hấp dưới.
Ho cũng là một phản xạ, nhưng không luôn luôn, xuất phát từ sự kích thích niêm mạc phế quản nằm giữa thanh quản và các thế hệ phế quản thứ hai. Một số nguyên nhân nằm ở tai và màng phổi. Các kích thích có thể tạo ra ho gồm dị vật, chất tiết lót bề mặt niêm mạc, chất xuất tiết do viêm trong đường hô hấp hay nhu mô phổi, một tổ chức mới xuất hiện, một áp lực tác động lên thành phế quản. Ho là một hoạt động tự ý hay không tự ý, hay kết hợp cả hai. Có 3 nhóm kích thích tạo ra ho không tự ý: cơ học, viêm và tâm lý.
-         Cơ học: chất kích thích (khói bụi), xoắn đường thở do xơ phổi hoặc xẹp phổi.
-         Viêm: thường nhất.
-         Tâm lý: ho khan liên quan tới lo lắng, stress tâm lý có thể làm nặng thêm ho do nguyên nhân thực thể.
 ? Cơ chế ho:
Động tác ho bao gồm động tác hít vào nhanh, đóng nắp thanh quản, co thắt cơ thở ra ở ngực và bụng, tăng đột ngột áp lực trong bụng và màng phổi, mở nắp thanh quản đột ngột và tống một luồng không khí ra ngoài. Áp lực cao trong lồng ngực >100-200 mmHg, làm tăng vận tốc của dòng khí qua đường hô hấp và tạo nên tiếng ho.
Các kích thích hướng tâm từ các thụ thể di chuyển về thần kinh trung ương qua các dây thần
kinh phế vị, thanh quản thần kinh sinh ba và thần kinh hoành.
-         Thần kinh phế vị mang xung động từ thanh quản, khí quản, phế quản, màng phổi, dạ dày.
-         Các receptor thường khu trú ở thanh quản, giảm mật độ ở các đường dẫn khí và không có ở các phế quản xa.
-         Thần kinh họng - thanh quản mang kích thích từ thanh quản.
-         Thần kinh sinh ba mang kích thích từ mũi và các xoang cạnh mũi.
-         Thần kinh hoành mang kích thích từ màng ngoài tim và cơ hoành.
Đường vận động thì nhiều hơn gồm không những thần kinh sọ và thần kinh hoành mà còn thần kinh cơ liên sườn và các cơ hô hấp phụ.
Hiệu quả của phản xạ ho bị ảnh hưởng mạnh bởi thể tích phổi:
-         Phản xạ ho có thể bị chặn đứng bằng cách cắt một trong các giai đoạn trong chuỗi phản xạ.
-         Các thụ thể kích thích có thể bị tổn thương do quá trình hủy hoại tại chỗ (dãn phế quản) hay sự nhạy bén của nó có thể giảm do thuốc gây nghiện hay thuốc gây mê.
-         Đáp ứng phản xạ có thể bị tổn thương do bệnh lý thần kinh cơ.
Nói chung nếu bệnh nhân đạt được áp suất thở ra tối đa >60 cmH2O, lưu lượng đỉnh sẽ đủ để tạo ra động tác ho có hiệu quả.
Nhưng trong quá trình nội soi, phản xạ ho làm bệnh nhân rất khó chịu và làm bác sĩ nội soi rất khó quan sát và tiến hành thủ thuật sinh thiết. Vì vậy, việc gây tê đầy đủ niêm mạc phế quản giúp hạn chế phản xạ ho trong lúc tiến hành nội soi.
3.3 Cơ chế bảo vệ chống nhiễm trùng
Ngoài phản xạ đóng nắp thanh quản và phản xạ ho, niêm mạc đường hô hấp dưới được bao phủ bởi lớp tế bào trụ lông với những vi nhung mao có nhu động từ trong ra ngoài và được bao phủ bên trên bởi một lớp nhầy có tác dụng bám dính dị vật, vi khuẩn và đưa từ trong ra ngoài giúp bệnh nhân ho khạc để tống dị vật hay vi khuẩn ra ngoài. Ngoài ra đường hô hấp dưới có nhiều IgA giúp tăng cường cơ chế bảo vệ tại chỗ của đường hô hấp chống lại sự phát triển của vi khuẩn.
3.4. Chức năng thông khí
Đường hô hấp giữ nhiệm vụ là một ống trung gian giúp cho không khí di chuyển từ ngoài đến phế nang và giúp phân bố khí đến mọi vùng của phổi. Một sự tắc nghẽn hay biến đổi về hình thái cây phế quản sẽ gây nên sự biến đổi thông khí ở nhiều mức độ khác nhau.

4. NHỮNG THAY ĐỔI SINH LÝ TRONG NỘI SOI PHẾ QUẢN ỐNG MỀM
Do đây là một thủ thuật xâm lấn nên sẽ gây nên những thay đổi sinh lý trong lúc soi. Vì thế chúng ta phải hiểu rõ những thay đổi đó để có những hành động cần thiết nhằm hạn chế tác dụng phụ của nó.
4.1 Giảm oxy máu
Trong lúc thủ thuật, oxy máu giảm trung bình 20 mmHg, có thể giảm tới 40 mmHg. PaO2 bệnh nhân trước nội soi càng thấp sẽ gây giảm oxy máu càng nặng lúc soi. Oxy máu giảm nặng nhất khi bắt đầu kỹ thuật, lúc đưa ống soi qua dây thanh và khi rút ống soi ra.
Khi rửa phế quản - phế nang, oxy máu giảm tỷ lệ với lượng dịch đưa vào, oxy máu giảm có thể còn kéo dài hơn 4 giờ sau khi rửa phế quản – phế nang.
Cơ chế của sự giảm oxy này có thể do giảm thông khí phế nang gây ra từ sự co thắt phế quản lúc soi, bệnh phổi mạn tính có trước hay đặt nội khí quản khi nội soi hoặc do thay đổi tỷ lệ thông khí - tưới máu gây ra do thuốc tiền mê, rửa một lượng nước lớn hay rửa bằng nước lạnh hơn nhiệt độ cơ thể và cả do tư thế bệnh nhân.
        P Đo khí máu động mạch trước khi soi.
        P Máy theo dõi độ bão hòa oxy liên tục.
        P Tăng nồng độ oxy cung cấp qua sonde mũi.
4.2 Sự thay đổi tuần hoàn trong nội soi
Tỷ lệ tử vong trong NSPQ với ống soi mềm là 1/5000, phần lớn là nguyên nhân tim mạch, mà có thể nhận biết và điều chỉnh trước khi ngưng tim xảy ra.
Trong NSPQ ống mềm, trường hợp bình thường, làm tăng 50% cung lượng tim kết hợp với tăng tần số tim và tăng 30% huyết áp, tăng áp lực động mạch phổi.
Nguyên nhân do tăng catecholamines do kích thích khí quản, giảm oxy máu và tình trạng lo lắng khi nội soi.
Do tăng nhu cầu oxy cơ tim trong thời gian nội soi, nếu có sự giảm oxy máu trên những bệnh nhân bệnh lý mạch vành sẽ gây nhồi máu cơ tim, rối loạn nhịp tim. ST chênh xuống ở bệnh nhân mạch vành xảy ra đồng thời với lúc nội soi nên cần theo dõi ECG liên tục ở những bệnh nhân có nguy cơ cao.
Rối loạn nhịp thường xảy ra trong lúc soi, kể cả ở những bệnh nhân không có bệnh tim với tỷ lệ 11 – 40 % và không thể biết trước được. Rối loạn nhịp nhĩ không liên quan đến giai đoạn thủ thuật hay giảm oxy máu, nhưng rối loạn nhịp thất thường xảy ra lúc đua ống soi qua dây thanh và kéo dài sau khi ngưng soi. Nguyên nhân có thể do gây mê, giảm oxy máu, tăng catecholamines hoặc hấp thu quá mức thuốc tê (hiếm).
4.3 Sự thay đổi về cơ học hô hấp
Đưa ống soi vào đường hô hấp, nghĩa là gây một hiện tượng bít tắc phế quản không tránh khỏi. Sự tắc nghẽn phụ thuộc vào kích thước ống soi và cây hô hấp. Ống soi mềm nhỏ trong khí quản người lớn không gây hậu quả đáng kể, nhưng một dụng cụ lớn cho vào ống soi sẽ gây tắc nghẽn nhiều hơn, và vì thế sự tắc cơ học đường hô hấp sẽ khác nhau nếu đưa ống soi qua mũi, qua ống nội khí quản hay trên một bệnh nhân thở máy.
NSPQ với ống soi mềm qua đường mũi làm giảm kích thước khí quản tới 11%. Điều này ít có tác dụng trên sức cản đường thở nhưng sẽ làm tăng dung tích cặn chức năng 17%.
Đặt nội khí quản đôi khi cần cho nội soi, thường với ống 8mm sẽ làm giảm 50% diện tích khí quản và làm tăng FRC. Khi cho ống soi vào sẽ làm giảm thêm 25% và tăng gấp đôi áp lực đường thở so với khi thở bình thường và làm tăng công hô hấp. Ngoài ra, tắc dòng khí thở ra sẽ có nguy cơ chấn thương áp lực khi ho.
Động tác hút qua nội soi làm giảm thể tích phế nang, do đó cần điều chỉnh lại thể tích khí lưu thông và phải tăng nồng độ oxy hít vào.

5. CHỈ ĐỊNH VÀ CHỐNG CHỈ ĐỊNH NỘI SOI PHẾ QUẢN
 Trước đây mục đích chủ yếu của NSPQ là để nhìn được cây khí - phế quản và những bất thường như u hoặc tổn thương hạt, sinh thiết những thương tổn trong lòng phế quản (nghi ngờ hay rõ rệt), rửa quét hoặc sinh thiết vùng phổi để xét nghiệm tế bào học và nuôi cấy. Ngày nay với sự ra đời của ống soi mềm soi phế quản còn dùng trong điều trị một số trường hợp như khi hút rửa dịch phế quản gây xẹp phổi hay tắc đường dẫn khí thấp, dùng để cầm máu bằng chính thành ống soi hay bằng cách gắn bóng vào cathete khi bệnh nhân không có khả năng chịu đựng được phẫu thuật, ...
5.1. Chỉ định
5.1.1. Chỉ định chẩn đoán
-       Ho ra máu,
-       Xẹp phổi,
-       Bệnh nhu mô lan tỏa,
-       Tổn thương do hít cấp,
-       Chấn thương ngực do vật tù,
-       Đánh giá tổn thương sau khi đặt nội khí quản,
-       Nuôi cấy vi khuẩn,
-       Chẩn đoán viêm phổi liên quan tới máy thở (VAP).
5.1.2. Chỉ định điều trị
-       Tăng tiết đờm dãi quá mức / xẹp phổi,
-       Dị vật,
-       Đặt nội khí quản,
-       Ho ra máu,
-       Tổn thương tắc nghẽn đường hô hấp trung tâm,
-       Đóng lổ dò khí quản màng phổi,
-       Mở khí quản ra da tại giường.
5.2. Chống chỉ định
-       Bác sỹ chưa có kinh nghiệm,
-       Bệnh nhân không hợp tác,
-       Không thể duy trì độ bão hòa oxy đầy đủ,
-       Bệnh nhân có bệnh lý tim mạch,
-       Rối loạn đông máu ở bệnh nhân có chỉ định NSPQ để sinh thiết,
-       Bệnh nhân hen phế quản có triệu chứng mà chưa được điều trị,
-       Bệnh phổi tắc nghẽn mãn tính có kèm tăng CO2,
-       Tăng áp lực nội sọ.

6. GIỚI THIỆU DỤNG CỤ NỘI SOI PHẾ QUẢN ỐNG MỀM
6.1. Ống soi mềm : được cấu tạo gồm 3 bộ phận chính
6.1.1. Bộ phận đầu ống soi : Gồm có
-       Một hệ thống thấu kính để nhìn bằng mắt thường hoặc gắn vào bộ phận xử lý để thu nhận hình ảnh đưa lên màn hình.
-       Một cần điều khiển lên xuống giúp cho đầu xa của ống soi cong lên 180o và cong xuống 100o - 130o trong quá trình nội soi.
-       Một lỗ của kênh thủ thuật để đưa các dung dịch, dụng cụ vào thực hiện các kỹ thuật trong khi soi (bàn chải, kềm, kim chọc hút...).
-       Một đầu của ống hút được gắn với hệ thống máy hút ở bên ngoài và nối liền với kênh thủ thuật ở bên trong kèm theo một nút van. Khi hút đàm nhớt, dịch tiết khí phế quản thì vận hành hệ thống máy hút bằng một bàn đạp để ở dưới bàn chân, đồng thời ấn nút van bằng đầu ngón tay trỏ.
6.1.2. Thân ống soi:
-       Đường kính thay đổi tùy loại, loại dành cho người lớn có đường kính ngoài từ 2,5 - 6,2 mm, có loại cực nhỏ đường kính 1,8 mm để quan sát phế quản nhỏ. Chiều dài thân ống soi là 55 cm hoặc 60 cm được đánh dấu từng đoạn 10 cm.
-       Cấu trúc bên trong ống soi gồm một bó sợi quang học (14.000 sợi) để dẫn truyền hình ảnh, mỗi sợi có đường kính khoảng 10 mm.
-       Một kênh thủ thuật bắt đầu từ đầu gần đến đầu xa của ống soi dùng để hút đàm nhớt hay thực hiện các kỹ thuật trong khi soi (bơm rửa phế quản phế nang, chải phế quản, sinh thiết, ...).
6.1.3. Bộ phận dẫn truyền ánh sáng :
Gồm 2 bó sợi quang học dẫn truyền ánh sáng từ nguồn sáng vào bộ phận đầu ống soi đi vào ống soi và phát ra ở đầu xa của ống soi.      
Đoạn cuối của đầu xa của ống soi có thể điều khiển cong lên hay xuống bởi cần điều khiển ở đầu ống soi. Ngay tại đầu xa ống soi gồm có một hệ thống thấu kính, hai hệ thống phát ra ánh sáng và một lỗ của kênh thủ thuật để hút hay tiến hành các kỹ thuật trong khi soi.
Ở thế hệ videofiberbronchoscope, bó sợi quang dẫn truyền hình ảnh và hệ thống thấu kính để nhìn không còn nữa.
6.2. Các bộ phận liên quan của ống soi phế quản mềm :  bao gồm nguồn sáng lạnh, bộ phận xử lý để thu nhận hình ảnh chiếu lên một màn hình.
6.3. Một số dụng cụ để lấy bệnh phẩm qua ống soi phế quản :           
-       Kềm sinh thiết: Gồm một cán điều khiển tiếp nối với một sợi bằng kim loại (có vỏ bọc bên ngoài và có thể uốn cong dễ dàng) đến lưỡi kềm. Cán điều khiển được thực hiện bằng tay dùng để đóng mở lưỡi kềm. Lưỡi kềm có nhiều hình dáng và kích thước khác nhau để lấy bệnh phẩm.
-       Dụng cụ chải phế quản: gồm một cán điều khiển tiếp nối với một sợi bằng kim loại (có ống thông nylon bao bọc bên ngoài và có thể uốn cong dễ dàng) đến phần bàn chải. Cán điều khiển dùng để đưa phần bàn chải thò ra hoặc thụt vào ống thông nylon và cũng được thực hiện bằng tay. Phần bàn chải cấu tạo từ những sợi lông nylon cứng, ngắn, gắn với một sợi thép không rỉ hình vòng chữ U.
-       Ngoài ra còn các dụng cụ khác để lấy bệnh phẩm như : kim chọc hút và các lọ nối với hệ thống hút để đựng dịch tiết phế quản hay dịch bơm rửa phế quản phế nang.

7. TIẾN HÀNH NỘI SOI PHẾ QUẢN
7.1. Chuẩn bị:
7.1.1. Bệnh nhân
- Thăm khám phát hiện các bệnh lý nền như hen, bệnh tim mạch, suy thận, rối loạn đông máu.
- Khai thác tiền sử dị ứng, thuốc đang dùng có ảnh hưởng tới chức năng đông máu.
- Kiểm tra xem bệnh nhân đã chụp XQ phổi và làm điện tâm đồ chưa? Độ bão hòa oxy của bệnh nhân như thế nào?
- Bệnh nhân phải nhịn ăn trước khi làm thủ thuật.
- Bệnh nhân và/hoặc người thân phải ghi bản cam kết làm thủ thuật.
7.1.2. Dụng cụ
- Thuốc tiền mê.
- Đặt đường truyền tĩnh mạch.
- Luôn luôn dành thời gian để kiểm tra và đối chiếu bệnh nhân trước khi tiến hành kỹ thuật NSPQ.
7.2.Thực hiện:
  - Nội soi được tiến hành ở phòng soi (đôi khi ở phòng X quang, phòng mổ) với ít nhất một bác sĩ và một điều dưỡng.
  - Trước khi soi, bệnh nhân sẽ được tiêm thuốc để giúp bớt ho. Sau đó, cần phải hít hơi thuốc tê trong khoảng 10 phút và được xịt thuốc tê vào sâu trong miệng. Thuốc tê được dùng để làm bớt khó chịu khi đưa ống soi vào.
  - Bệnh nhân soi ở tư thế nằm ngửa, được gắn dây oxy để thở, được theo dõi mạch, huyết áp và tình trạng hô hấp qua bộ cảm nhận gắn ở đầu ngón tay.

8. THEO DÕI VÀ BIẾN CHỨNG:
8.1. Theo dõi sau thủ thuật:
Sau khi được NSPQ, bệnh nhân thường được theo dõi liên tục trong vòng 1 đến 2 giờ cho đến khi thuốc hết tác dụng hẳn và bệnh nhân có thể nuốt bình thường trở lại, cụ thể:
- Bệnh nhân ngoại trú hoặc bệnh nhân nội trú bệnh không nặng: cần nằm trong phòng hồi sức khoảng một tiếng đến khi tình trạng tê giảm đi.
- Bệnh nhân nội trú nằm trong đơn vị săn sóc đặt biệt phải thở máy (thở, máy thở): tiếp tục cho thuốc an thần để duy trì cho bệnh nhân dễ chịu với máy thở.
Một số bệnh nhân có thể ho ra máu màu nâu đen 1 đến 2 ngày sau NSPQ. Điều này là bình thường. Tuy nhiên nếu ho ra máu đỏ tươi thì phải báo ngay với bác sĩ. Đau nhức ở cổ họng hoặc giọng nói khàn cũng sẽ dịu đi trong vòng một ngày hoặc lâu hơn.
- Bệnh nhân về nhà cùng ngày: cần nghỉ ngơi yên tĩnh, an thần có thể còn kéo dài, do đó không nên: lái xe, vận hành máy móc, uống rượu bia. Ngày hôm sau tác dụng an thần sẽ giảm đi và bạn sẽ có thể hoạt động trở lại bình thường.
8.2. Theo dõi sau nội soi có sinh thiết:
Bệnh nhân cần chụp XQ phổi để loại trừ tràn khí màng phổi:
-       Sau khi sinh thiết qua NSPQ ở bệnh nhân không có ống nội khí quản
-       Sau khi NSPQ thường quy ở bệnh nhân có ống NKQ, thông khí nhân tạo:
• Trả lại cho bệnh nhân thông khí nhân tạo các thông số cài đặt máy thở như trước khi tiến NSPQ.
• Ở bệnh nhân không có ống nội khí quản, thở oxy liên tục trong 4 giờ.
• Theo dõi các dấu hiệu sinh tồn cho tới khi bệnh nhân ổn định trong ít nhất 2 giờ.
• Bệnh nhân không được ăn và/hoặc uống cho tới khi thuốc gây tê cục bộ hết tác dụng (khoảng 1 – 2 giờ).
• Sốt sau NSPQ thường gặp là do giải phóng các cytokin; sốt có kèm rét run và xuất hiện muộn  >24 giờ thì có khả năng là do viêm phổi sau NSPQ.
8.3. Biến chứng và tai biến:
- Khi được thực hiện bởi bác sĩ được đào tạo thì NSPQ bằng ống mềm thường quy rất an toàn.
- Tỷ lệ tử vong không vượt quá 0,1%
- Tử vong do tiền mê quá mức hoặc gây tê tại chỗ, ngừng thở do chảy máu, co thắt thanh quản, co thắt phế quản và ngừng tim do nhồi máu cơ tim.
- Tỷ lệ biến chứng chung < 8%
- Biến chứng không gây tử vong: sốt, viêm phổi, các phản ứng của thần kinh giao cảm, co thắt thanh quản và co thắt phế quản, tụt huyết áp, rối loạn nhịp tim, tràn khí màng phổi, các vấn đề liên quan tới gây tê, và mất tiếng.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Bệnh học nội khoa tập 2, Trường ĐHYD Cần Thơ.
Hướng dẫn thực hành nội khoa bệnh phổi, NXB Y Học 2009.